BÁO CÁO THU HOẠCH KẾT QUẢ HĐTN: THAM QUAN NHÀ QUỐC HỘI

Nhìn lại bài thơ Thăng Long thành hoài cổ để liên hệ tới giá trị không gian, lịch sử, văn hóa, văn học về Thăng Long xưa và nay.

A. Giới thiệu

  1. Bài thơ "Thăng Long thành hoài cổ" (Bà Huyện Thanh Quan)

2. Tòa nhà Quốc hội Việt Nam

Hoạt động Trải nghiệm: Sinh viên Trường Đại học Giáo dục (khóa QH2021S SPNV) tham quan Tòa nhà Quốc hội

Hình ảnh Tòa nhà Quốc hội và tập thể khóa QH2021 SPNV

Tọa lạc trên đường Độc Lập, Tòa nhà Quốc hội là trụ sở làm việc của Quốc hội Việt Nam, được xây dựng trên nền tòa nhà Quốc hội cũ, cạnh Quảng trường Ba Đình, khu di tích Hoàng thành Thăng Long...

Tòa nhà Quốc hội Việt Nam là nơi quyết định các vấn đề quan trọng bậc nhất của đất nước. Đây là một công trình hành chính có quy mô lớn và hiện đại nhất Việt Nam, đại diện cho cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nhà Quốc hội là một tác phẩm kiến trúc đồ sộ không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị mà còn có ý nghĩa to lớn về mặt tư tưởng, văn hóa, trở thành biểu tượng của nhân dân cả nước.

Tòa nhà Quốc hội hiện nay mất tới 15 năm để hoàn thành kể từ khi phôi thai ý tưởng. Tòa nhà Quốc hội Việt Nam là trụ sở Quốc hội duy nhất trên thế giới  sở hữu 2 hầm khảo cổ  dưới lòng đất. Đặc biệt, công trình được lấy cảm hứng từ sự tích "Bánh chưng, bánh dày" đậm chất truyền thống văn hóa Việt.

Ý tưởng lấy cảm hứng "Trời tròn, đất vuông"

Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2014), “Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, việc lựa chọn vị trí này để xây nhà Quốc hội thể hiện tính liên tục của quyền lực nhà nước, từ thời kỳ Đại La đến Thăng Long đời Lý - Trần và cho đến Hà Nội ngày nay. Hiếm có nhà Quốc hội nào được xây bên di tích (hoàng thành Thăng Long) đặc biệt như vậy”.

B. "Thăng Long thành hoài cổ" và Tòa nhà Quốc hội ngày nay

I. Lý do lựa chọn chủ đề dự án học tập: Nhìn lại bài thơ "Thăng Long thành hoài cổ" để liên hệ tới giá trị không gian, lịch sử, văn hóa, văn học về Thăng Long xưa và nay.

Công trình Tòa nhà Quốc hội ngày nay là sự chồng xếp của bao vương triều trên nền thành xưa quách cũ tráng lệ nguy nga. Nhìn vào Nhà Quốc hội nằm trên Quảng trường Ba Đình xưa, là một lần ta nhìn lại sự rực rỡ và suy tàn, nhìn lại một lịch sử từ Đại La, đến Thăng Long, rồi đến Hà Nội ngày nay. Từng bước chân tới mỗi địa điểm trong Tòa nhà Quốc hội, là một lần từng lời của tổ tiên, của cha ông ta văng vẳng bên tai. Vì thế, không ngoa khi nói chính Nhà Quốc hội là một tác phẩm chẳng những dồi dào giá trị về lịch sử (thứ hiển hiện rõ) mà còn là một bài ca, một áng thơ để bao thế hệ tiếp theo dựa vào thực tại, để soi rọi quá khứ oanh liệt, lẫy lừng, nhưng cũng chẳng kém phần phong nhã của chúng ta.

Lựa chọn bài thơ "Thăng Long thành hoài cổ" của Bà Huyện Thanh Quan làm một "chiếc đèn" để soi rọi lại quá khứ oanh liệt, phong nhã ấy nghe tưởng chừng như vô lí. Bởi thứ tâm trạng mà Bà Huyện Thanh Quan nhìn một Thăng Long chẳng còn là kinh đô nữa, nó đầy đau buồn, tang thương. Thế nhưng, thứ tâm trạng mà hậu thế chúng ta, khi nhìn về những vương triều giờ đây chỉ còn là cái bóng trên thành xưa quách cũ cũng chẳng thể tránh khỏi hai chữ "nuối tiếc", tránh khỏi khao khát muốn tìm lại, như tâm trạng của Nguyễn Tuân trong "Vang bóng một thời" hay sao?

Vì vậy, tôi mong rằng, thông qua dự án học tập này, chuyến tham quan Tòa nhà Quốc hội sẽ mang thêm những dư vị riêng của nó, những dư vị đặc biệt thuộc về quá khứ, mà ta nhờ lời thơ của "Thăng Long thành hoài cổ" soi rọi.

... thứ tâm trạng mà hậu thế chúng ta, khi nhìn về những vương triều giờ đây chỉ còn là cái bóng trên thành xưa quách cũ cũng chẳng thể tránh khỏi hai chữ "nuối tiếc", tránh khỏi khao khát muốn tìm lại, như tâm trạng của Nguyễn Tuân trong "Vang bóng một thời" hay sao?

II. Thăm quan Tòa nhà Quốc hội qua "Thăng Long thành hoài cổ"

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường. Đến nay thắm thoắt mấy tinh sương.

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

Trong bài thơ "Thăng Long thành hoài cổ", hai câu thực đã thể hiện rõ nét sự tang thương, u tịch của cảnh vật Thăng Long. Đường bàn cờ dọc ngang nơi Long Thành xưa kia từng suốt đêm ngày rộn rịp ngựa xe của các ông hoàng, bà chúa, những xe tứ mã của các vương công, quốc thích. Nhưng nay chỉ còn lại "thu thảo”, cỏ mùa thu vàng úa. “Thu thảo” như một chứng nhân buồn và tàn tạ. Cái hồn mùa thu cũng là cái hồn thiêng sông núi, cái hồn thiêng Thăng Long được cảm nhận từ sắc màu cỏ thu úa vàng, cỏ cây cũng mang nỗi buồn. Con đường càng trở nên vắng vẻ. Những cung điện nguy nga, những lầu son gác tía, những bệ ngọc hành cung huy hoàng, tráng lệ thời Lê - Trịnh vì chiến tranh loạn lạc, vì sự thay chủ đổi ngôi, nay đổ nát hoang tàn, chỉ còn lại “nền cũ"'.

Như chính Nguyễn Du cũng từng viết: “Nghìn năm dinh thự thành quan lộ. Một dải tàn thành lấp cố cung” (Thành Thăng Long).

"Nền cũ lâu đài bóng tịch dương"

“Lối xưa” với "nền cũ", “xe ngựa” với “lâu đài”, “hồn thu thảo” với “bóng tịch dương” được cấu trúc cân xứng, hài hòa. Thanh điệu bằng, trắc hô ứng nhau tạo nên âm điệu du dương, trầm bổng như đưa hồn ta về xa xưa, năm tháng, những thuở vàng son của Kinh thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê, cái buổi hưng thịnh thanh bình...

Hay phải chăng là "bóng rạng đông"?

Một thoáng nhìn lại: Liệu rằng giờ đây, nơi khi xưa phồn hoa ấy, chỉ còn sót lại "hồn thu thảo", "bóng tịch dương" hay không?

Một nghìn năm trước, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, truyền rằng khi đến đất này ngài thấy đám mây hình rồng bay lên từ thành Đại La nên đổi tên thành Thăng Long. Sự huyền diệu ấy dẫu chẳng rõ thực hư nhưng tự bao đời hình tượng rồng bay đã trở thành biểu trưng thiêng liêng của chốn kinh kỳ, như chính Lý Thái Tổ ghi trong Chiếu dời đô:  "Muôn vật cực kỳ giầu thịnh, đông vui. Xem khắp nước Việt, đây là chỗ đất đẹp nhất, thật là nơi đô hội trọng yếu để bốn phương tụ họp".

Hay phải chăng là "bóng rạng đông"?

Phía dưới tầng hầm, Nhà Quốc hội lưu giữ một sợi dây lịch sử kéo dài, cội nguồn hồn thiêng của đất Thăng Long. Còn tầng trên mặt đất được dùng để trưng bày lịch sử Quốc hội Việt Nam. Câu chuyện văn hóa - lịch sử vẫn đang được tiếp tục viết, hay xin mượn cụm từ "bóng rạng đông" để đối đáp lại "bóng tịch dương" trên nền cũ của Bà Huyện Thanh Quan.

Bởi giờ đây Tòa nhà Quốc hội được coi là nơi quyết định các vấn đề quan trọng bậc nhất của đất nước. Sẽ chẳng còn những "hồn thu thảo", "bóng tịch dương" nữa, trên sự chồng xếp của bao vương triều và thời đại, đây sẽ là nơi để chúng ta tiếp bước cha anh, là nơi gửi gắm hy vọng hướng về tương lai rạng ngời, phát triển của một đất nước, một dân tộc.

Phòng Truyền thống: Nơi lưu giữ những cột mốc quan trọng trong hành trình chuyển mình, hội nhập và phát triển của Việt Nam

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt. Nước còn cau mặt với tang thương.

Vật có đổi, sao có dời, nhưng “nước” và , “đá” vẫn còn đó, vẫn thách thức cùng tuế nguyệt, cùng tang thương. Hai câu trong phần "luận ” nói về “nước” và “đá ” như những chứng nhân của lịch sử, của phế tích hoang tàn.

Trên cái “nền cũ lâu đài”, đá thách thức cùng năm tháng “vẫn trơ gan” đau đớn, buồn thương. Nơi bến cũ, hồ xưa, “nước còn cau mặt” với mọi đổi thay, “với tang thương” cuộc đời. Bà Huyện Thanh Quan đã lấy cái bất biến: “vẫn trơ gan", “còn cau mặt” của đá và nước để làm nổi bật cái tang thương cuộc đời là một nét vẽ “hoài cổ" làm rung động lòng người gần hai trăm năm qua. Nhìn lại những "đá", "nước" ấy, ta thấy được sự kéo dài của ánh "rạng đông", vẫn còn được hậu thế lưu lại đến mãi sau. Dù trải qua bao tang thương, tuế nguyệt, những "hồn cốt", "hạt nhân" của Thăng Long xưa vẫn còn. Dưới tầng hầm của Nhà Quốc hội, còn lưu giữ lại một bảo tàng những cổ vật, nối liền mạch lịch sử gần 1300 năm từ tầng hầm hai - trưng bày về thời kỳ tiền Thăng Long (từ thế kỷ VII đến thế kỷ X) tới tầng hầm một - trưng bày về thời kỳ Thăng Long, trải qua các thời Lý - Trần – Lê (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX).

Vẫn "đá", vẫn "nước", vẫn "trơ gan" nhưng chẳng còn "tang thương"

Không gian trưng bày các cổ vật thời kỳ trước và sau khi xây dựng Hoàng Thành Thăng Long đầy sống động và chân thực đang “tọa” ngay dưới tầng hầm tòa nhà Quốc hội. Tiếp nối, tôn vinh những giá trị truyền thống dân tộc, bảo tàng cổ vật này chính là nơi viết tiếp những câu chuyện lịch sử cho con cháu muôn đời.

Từng bước, người xem “bị” dẫn dắt như được đi vào cõi xưa theo những chủ đề, những câu chuyện trên nền móng bằng vật liệu kiến trúc, với các hiện vật phân nhóm theo chất liệu: gốm, sành, kim loại, di cốt động vật; theo công dụng: vật liệu xây dựng, trang trí, đồ ăn trầu, hút thuốc lào, đồ chơi trẻ em, v.v...

Đặc biệt, cái hồn cốt "đá", "nước" ấy còn được lưu giữ, truyền tải qua hình ảnh Phòng họp Diên Hồng. Đây là nơi diễn ra các phiên họp toàn thể của Quốc hội để bàn thảo và quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Phòng họp chính được đặt tên là Diên Hồng, gợi nhớ đến Hội nghị Diên Hồng do vua, quan nhà Trần tổ chức vào cuối tháng Chạp năm 1284

Hội nghị Diên Hồng (xưa) và Phòng họp Diên Hồng (nay)

Xưa kia cấm thành, vườn thượng uyển, ngày nay là phòng họp mang tên Diên Hồng - lấy cái điểm tựa hào khí Đông A lừng lẫy một thời làm sinh khí cho những quyết nghị quốc gia ngày nay vậy.

Ngót nghìn năm với bao chiến công hiển hách cùng những tên tuổi lẫy lừng của dân tộc, bao sự kiện có ý nghĩa đổi thay cục diện đất nước nhưng cũng ở kinh thành này, sử sách ghi lại các bn cố thăng trầm, ly loạn, kinh thành với hơn 10 lần bị đốt cháy, tàn phá bởi ngoại bang và những khúc ngoặt suy vong giữa các vương triều phong kiến.

Nhìn lại lịch sử đầy oai hùng nhưng cũng nhuốm màu "tang thương" ấy, đặt cho tôi câu hỏi về sứ mệnh của mình, sứ mệnh của những lớp người đi sau được hưởng nền thái bình đổi bằng bao xương máu...

"Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta. Mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay..."

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ. Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

“Gương cũ” là chuyện đời, là quá khứ và hiện tại, là Thăng Long xưa, là Hà Nội nay (thời nhà Nguyễn). Cảnh đấy là “lối xưa”, là “nền cũ”, “hồn thu thảo ” và “bóng tịch dương”, là “đá” và “nước”, là hồn nước thiêng liêng, là Kinh thành xa xưa... “Người đây” là nữ sĩ, là nhân vật trữ tình trong bài thơ. “Đoạn trường" nghĩa là đứt ruột, nỗi đau ghê gớm.

Nữ sĩ vô cùng đau đớn trước cảnh hoang phế, hoang tàn của Kinh thành Thăng Long. Nhớ xưa thành Thăng Long là nhớ tới tất cả niềm tự hào những trang sử vàng chói lọi của tiền nhân... Hai chữ “ngàn năm" gợi nhớ thiên niên kỉ Thăng Long huy hoàng. Hai vế tiểu đối: “cảnh đấy"  "người đây” làm nổi bật sắc điệu thẩm mĩ tả cảnh ngụ tình. Câu 1 nói về “cuộc hí trường”, câu 8 cực tả "đoạn trường" - đó là cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Có chứng kiến, có nhìn thấy sự đổi thay đến thấm thoắt nhanh chóng nơi Kinh thành xưa thì mới có nỗi đau “đoạn trường” đến như vậy.

Nhưng có lẽ, gương cũ vẫn có thể soi rọi ngàn năm, nhưng người đây giờ chẳng còn phải chịu nỗi đau "đoạn trường" nữa.

Bởi chồng xếp lên tầng hầm - nơi ghi lại dấu vết của bao vương triều, là chặng đường lịch sử của Nhà nước, của Đảng ta - tượng trưng cho tương lai, hy vọng, cho những tiếp bước cha anh mà chúng ta đang thực hiện. Những hoài bão, khát khao ấy được tiếp sức bởi mạch lịch sử nối liền hàng nghìn năm dựng nước giữ nước, được tiếp sức bởi khát vọng nhìn thấy một Thăng Long phồn hoa, đổi mới, hiện đại, "sánh vai với các cường quốc năm châu".

Lựa chọn bài thơ "Thăng Long thành hoài cổ" để viết về chuyến thăm quan Tòa nhà Quốc hội, là một cách nhìn "phản biện" từ hiện tại, hoặc đồng cảm với sự u tịch của Bà Huyện Thanh Quan khi chẳng còn thấy Thăng Long nghìn xưa; nhưng cũng là sự khát khao, hoài bão xây dựng nên một Thăng Long, một kinh đô còn rực rỡ hơn như vậy nữa.

Be the first to like this item

Ý tưởng lấy cảm hứng "Trời tròn, đất vuông"

... thứ tâm trạng mà hậu thế chúng ta, khi nhìn về những vương triều giờ đây chỉ còn là cái bóng trên thành xưa quách cũ cũng chẳng thể tránh khỏi hai chữ "nuối tiếc", tránh khỏi khao khát muốn tìm lại, như tâm trạng của Nguyễn Tuân trong "Vang bóng một thời" hay sao?

"Nền cũ lâu đài bóng tịch dương"

Hay phải chăng là "bóng rạng đông"?

Vẫn "đá", vẫn "nước", vẫn "trơ gan" nhưng chẳng còn "tang thương"

Hội nghị Diên Hồng (xưa) và Phòng họp Diên Hồng (nay)